Như đã hẹn từ trước, chúng tôi tới gặp bà Nguyễn Thị Trâm
vào một ngày cuối Thu trời se lạnh, với dáng người cao gầy, chất phác và có
chút khắc khổ, giọng nói chân thật, hiền hậu, bà kể cho chúng tôi nghe về cuộc
đời và những năm tháng hào hùng cùng lực lượng TNXP, cũng như cuộc sống sau
quân ngũ về địa phương sinh sống.
Nữ TNXP
Nguyễn Thị Trâm.
Tuổi thơ vất vả, sớm
giác ngộ cách mạng
Bà Nguyễn Thị Trâm, sinh năm 1948 tại thôn Lương Ngọc, xã
Thúc Kháng, huyện Bình Giang, hiện trú quán phố Bình Minh, phường Phạm Ngũ Lão,
TP Hải Dương. Cha bà từng tham gia kháng chiến chống Pháp và bị thương, sau năm
1954 về địa phương hoạt động du kích. Bà là con lớn trong gia đình có 7 anh chị
em. Do nhà nghèo, nên từ nhỏ đã phải cùng cha mẹ gánh vác công việc đồng áng và
trông nom các em. Cha già, hay đau ốm do vết thương tái phát, bà đã từng thay
cha làm thủy lợi trên các công trình thủy lợi trọng điểm của tỉnh. Lớn lên
trong gia đình có truyền thống cách mạng và được sự dạy bảo của cha mẹ về lòng
yêu nước, bà đã sớm tham gia các phong trào của địa phương. Năm 1966, tham gia
Ban chỉ huy đội sản xuất, kiêm Trung đội trưởng Đội dân quân, Phó bí thư Đoàn
thanh niên hợp tác xã thôn Lương Ngọc, sau làm Ủy viên Ban chấp hành xã Thúc
Kháng. Trong quá trình công tác bà đã đạt nhiều thành tích và được nhận nhiều
phần thưởng cao quý của tỉnh Đoàn Hải Dương tặng, như: phong trào thi đua Thanh
niên làm theo lời Bác, xung phong tình nguyện “mỗi người làm việc bằng hai để đền
đáp cho đồng bào miền Nam ruột thịt”…
Những năm tháng hào
hùng cùng lực lượng TNXP
Những năm 1965-1970, giặc Mỹ bị quân ta đánh bại trên các
mặt trận miền Nam. Nhằm đảo ngược tình thế, chúng đã mở rộng chiến tranh “leo
thang” bắn phá miền Bắc với ý đồ biến miền Bắc trở lại “thời kỳ đồ đá” và chặn
đứng sự chi viện cho chiến trường miền Nam. Chứng kiến người thân và bà con xóm
làng bị bom đạn tàn sát, ngày 5/6/1968 bà Trâm xung phong lên đường tham gia lực
lượng TNXP. Bà được biên chế vào Đại đội 32, Tiểu đoàn 4, Đoàn 559, công tác tại
tỉnh Pathet, Lào. Bà được phân công làm Tiểu đội trưởng Đội làm đường, công việc
chính là san lấp hố bom, rà phá bom mìn, đảm bảo giao thông thuận lợi cho những
chuyến xe đi về.
Để thực hiện mưu đồ cắt đứt chi viện cho chiến trường miền
Nam, địch cho máy bay ném bom tàn phá ác liệt những tuyến đường giao thông, có
những lúc bị chia cắt, để liên lạc và phối hợp với nhau trong công việc, bà
cùng đồng đội thực hiện báo động bằng tiếng súng. Bà nhớ lại: “chúng tôi là những
TNXP không quản ngày - đêm, nắng - mưa, cứ nghe tiếng báo động là sẵn sàng đi
làm theo hiệu lệnh của chỉ huy: 1 tiếng súng, báo tắc đường; 2 tiếng súng, báo
có mặt làm đường; 3 tiếng súng, báo thông đường cho xe đi. Làm việc cơ động, từ
mở đường 69 đến đường 70 (từ tỉnh Phathet đến tỉnh Khăm Muộn, Nam Lào), vừa làm
vừa phải chú ý máy bay địch do thám và tuyệt đối không tạo ra bụi, khói và tiếng
động lớn. Vào mùa mưa chiến trường càng trở nên khó khăn, đặc biệt với các nữ
TNXP, sống trong điều kiện ẩm thấp, quần áo chưa kịp khô phải sấy bằng thùng
tôn dưới hầm bí mật. Bên cạnh đó bệnh sốt rét rừng hoành hành, do làm việc cơ động
nên mỗi lần di chuyển đều phải mang vác đồ nặng nhọc, nhiều người sức khỏe yếu,
tôi và những người khỏe hơn lại săm sắn giúp đỡ mọi người”.
Giữa chiến trường ác liệt, vấn đề ăn uống đảm bảo sức khỏe
cho dân công, bộ đội để làm việc và chiến đấu rất quan trọng. Là người có sức
khỏe, linh hoạt và luôn sáng tạo trong công việc, tháng 6/1969 bà được điều động
sang làm “anh nuôi”. Ngoài việc chuẩn bị tốt các bữa ăn hàng ngày, bà còn tìm
tòi chế biến thêm các món để cải thiện bữa ăn như: làm bánh cuốn, làm bún... đồng
thời lấy tre đan rổ, rá phục vụ sinh hoạt hàng ngày của đơn vị. Đến đây giọng
bà chùng xuống: “hàng ngày tôi và đồng đội đi trèo núi, lội suối tìm các loại
rau, củ, quả rừng về nấu canh. Có hôm kiếm được mấy quả mướp, đang nấu canh thì
máy bay do thám của địch tới, thế là phải dập bếp và đổ cả nồi đi”. Dưới bom đạn
của kẻ thù, việc vận chuyển lương thực hết sức khó khăn, đặc biệt vào mùa mưa
không vận chuyển được bằng đường bộ mà phải dùng cách thả trôi lương thực từ đầu
nguồn. Đối với gạo, bọc trong bao tải gai, bên ngoài bọc 2 túi nilon thả trôi từ
đầu nguồn sông, suối, sau dùng tín hiệu báo tin ra vớt. Do đó bà thường xuyên
cùng đồng đội vớt gạo tại các địa điểm kho binh trạm. Năm 1972 bà được Đảng và
Nhà nước tặng thưởng Danh hiệu “Dũng sĩ diệt Mỹ” cấp 2, bà là một trong số ít
“anh nuôi” nhận được vinh dự này.
Trở về quê nhà, tích
cực tham gia các hội đoàn thể
Năm 1973, bà Nguyễn Thị Trâm xuất ngũ trở về địa phương,
làm công nhân tại Xí nghiệp 19 tháng 5 (cầu Phú Lương, thị xã Hải Dương). Về
công tác tại đây, bà được giao làm Phó bí thư Đoàn thanh niên, kiêm Dân quân tự
vệ, sau làm Tổ trưởng Công đoàn Tổ sản xuất. Năm 1979 bà lập gia đình, chồng bà
cũng là bộ đội phục viên làm tại Công ty san lấp Hải Dương (ông mất năm 2006).
Sau đó lần lượt 3 người con ra đời, trong đó có hai nam, một nữ, hiện gia đình
ba thế hệ nhà bà vẫn ở chung một nhà. Với bản tính năng động, sáng tạo, tận
tình với công việc bà luôn hoàn thành xuất sắc công việc được giao. Trong những
năm làm việc tại Xí nghiệp bà đều đạt danh hiệu “Lao động tiên tiến”.
Năm 1990, nghỉ hưu theo chế độ, về địa phương, bà tích cực
tham gia hoạt động của Hội Phụ nữ, là hội viên Hội truyền thống Trường Sơn đường
Hồ Chí Minh, tỉnh Hải Dương, là Ủy viên Ban chấp hành, rồi Chủ tịch Hội TNXP của
phường Phạm Ngũ Lão hai khóa liên tiếp. Hội TNXP phường hiện có hơn 40 thành
viên, hàng ngày bà vẫn đạp xe đi hỏi thăm, động viên, giúp đỡ các hội viên từ
Chợ Mát đến cống Đọ. Bên cạnh đó thu gom phế liệu bán gây quỹ làm từ thiện,
giúp đỡ những hội viên có hoàn cảnh khó khăn. Ngay như đợt Covid-19 vừa rồi, bà
là một trong những người đầu tiên ủng hộ quỹ phòng, chống Covid của tỉnh, tuy
không nhiều nhưng là tấm lòng thiện nguyện của bà. Hiện tại, hàng ngày bà vẫn dậy
sớm, giúp con trai út chăm nuôi cá ở mấy mẫu ao gia đình đấu thầu, xong việc lại
về trông cháu, giúp đỡ các con.
Bà Nguyễn Thị Trâm là một phụ nữ tiêu biểu không quản ngại
khó khăn, gian khổ, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ Tổ quốc. Do có nhiều đóng góp,
bà được Đảng và Nhà nước tặng nhiều Bằng khen, giấy khen và phần thưởng cao
quý.
Bá Giang – Hoàng Hương